Chắc hẳn quý vị và các bạn trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ không còn xa lạ với cái tên "Cô Chín", một trong những vị thánh cô nổi tiếng trong hệ thống Tứ Phủ. Cô Chín có nhiều tên gọi khác nhau như Cô Chín Sầm Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn, hay Cô Chín Suối Rồng. Vậy, Cô Chín là ai, và sự tích của cô ra sao? Mời quý vị và các bạn cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Sự tích về Cô Chín:
Theo truyền thuyết, Cô Chín vốn là một tiên nữ trên thiên đình. Trong một lần vô tình làm vỡ một chén ngọc, Ngọc Hoàng đã giáng cô xuống hạ giới để hầu mẫu Liễu Hạnh. Sau khi giáng trần, cô đã lang bạt khắp nơi, cuối cùng về đến đền đất Thanh Hóa. Tại đây, cô đã lập đền thờ, nhờ vào sự linh ứng của cô mà người dân bắt đầu thờ phụng.
Cô Chín nổi tiếng với những phép thần thông, đặc biệt là khả năng xem bói, chữa bệnh và gọi hồn. Nhiều thanh đồng khi hầu cô Chín thường mặc áo hồng, múa quạt tiên, và đôi khi cô cũng tham gia vào những nghi lễ như thêu hoa, dệt lụa.
Đền Sòng Sơn và Lễ Hội:
Cô Chín được thờ chính tại Đền Sòng Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đền Sòng được xây dựng vào thời Cảnh Hưng (1740-1786), và trải qua nhiều lần trùng tu, phục hồi. Lễ hội tại Đền Sòng diễn ra vào ngày 26 tháng 2 âm lịch hằng năm, là dịp để người dân tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh và Cô Chín.
Đền Sòng có một hồ nước tự nhiên quanh năm xanh trong, được gọi là hồ cá thần. Mỗi năm, vào dịp lễ hội, đàn cá màu đỏ bơi lội trong hồ, nhưng sau khi lễ hội kết thúc, cá lại biến mất một cách kỳ lạ.
Đền Cô Chín:
Ngoài Đền Sòng, Cô Chín còn được thờ tại Đền Cô Chín ở khu vực phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Đền Cô Chín nổi bật với 9 miệng giếng thiêng, nước trong giếng không bao giờ cạn, và được xem là linh thiêng. Miệng giếng thứ 9 đặc biệt sâu thẳm và là nơi Cô Chín ngự trị. Các câu chuyện huyền bí và kỳ lạ xoay quanh giếng thiêng Cô Chín đã thu hút rất nhiều khách hành hương đến thăm.
Những câu chuyện kỳ bí:
Có những câu chuyện kể lại rằng vào một năm hạn hán, người dân quanh vùng đã đào giếng tìm nước. Sau khi khoan tới miệng giếng thứ 9, một mạch nước lớn bất ngờ phun trào, cứu sống cả làng. Nước từ giếng Cô Chín luôn trong, lạnh và có một dòng sông ngầm chảy dưới giếng. Những đoàn thăm dò từ Hà Nội cũng không thể đo được độ sâu của giếng, và không có kết quả chính xác về dòng nước kỳ bí này.
Ngoài ra, cũng có những câu chuyện về việc cá thần báo oán khi người dân sử dụng điện để đánh bắt cá trong khu vực Cô Chín, dẫn đến những cái chết thương tâm. Chính vì vậy, việc tắm ở suối thiêng của Cô Chín cũng rất nguy hiểm, đã có nhiều vụ đuối nước xảy ra.
Bàn thờ kết hợp giữa truyền thống và thẩm mỹ hiện đại
Bản văn Cô Chín
Bản 1
1. Xuất xứ và quyền năng: Từ xưa cô giáng về đền linh thiêng,
Chấp chính cửu tỉnh, danh vang khắp chốn.
2. Hành cung nơi trú ngụ: Nhà cô lấy gốc sung xanh,
Doi già làm cửa hướng quanh sân đền.
Thanh Hoa – cảnh sắc vang tên,
Đền cô dựng lập, thời vua Minh triều.
Mẫu ngự tầng chín cao siêu,
Cô nay mắc võng bóng chiều cây sung.
3. Linh địa kỳ bí: Mạch âm dương kết nối ngầm sâu,
Chín mươi chín giếng trào câu nước ngọc.
Đường ngang chính đạo dân đi,
Ra Ninh vào Hóa, xuôi về hai miền.
Núi sông đồi thoải u huyền,
Hổ long chầu ngự hai bên song hành.
4. Hành trạng và giáng thế: Xưa cô vốn thuộc Thiên đình,
Chén tiên sơ sẩy, đành sinh cõi trần.
Tám, chín tuổi nhỏ thanh tân,
Tánh tình khôn khéo, nói năng dịu dàng.
Đôi khi cô lại ngự hàng,
Cây thiêng cây kiểng, lối làng rộn vang.
5. Tính cách linh ứng: Ai mà ngạo mạn khinh nhờn,
Cô về mách Mẫu cất hồn khỏi thân.
Kẻ mê mẩn trí không phân,
Thân người lạc hướng, hồn phần u mê.
6. Giải thoát và linh ứng: Biết hối cải, đến tạ cô,
Lễ thành tâm, tội lỗi liền tiêu tan.
Cô tài phép tựa thần tiên,
Sai binh lôi tướng thiêng liêng độ trần.
7. Đồng cô và cơ pháp: Đồng cô cô hiện linh hiển,
Xem bói tỏ rõ, không khi nào sai.
Ai mà cầu phúc khẩn tài,
Cô soi rõ hết việc ngoài việc trong.
8. Số phận – Đổi thay: Âm dương, phong thủy cô thông,
Tài linh ứng biến trong vòng tam thiên.
Đổi mệnh cải tướng nhân sinh,
Dù hình chữ thập cô thành chữ thiên.
9. Dạo khắp thế gian: Cô hiện bóng nhẹ thanh tân,
Khi về cảnh Huế, khi ngược Bắc thành.
Đôi khi giả gái mộng lành,
Trêu người tình mộng, hữu duyên gặp nàng.
Bản 2
1. Miêu tả cảnh cô hiển linh: Gió thu thoảng hương hoa lan,
Trăng rọi giếng ngọc, lung linh nước vàng.
Núi rừng Thanh Hóa huy hoàng,
Cô Chín linh ứng, rạng danh cõi trần.
2. Tài phép và âm nhạc: Ngày xưa gần gũi Mẫu thân,
Bày quán che mát, núi rừng Sòng Sơn.
Đàn ngũ cung gảy vang ngân,
Tình người cảm động, núi non lay lòng.
3. Thi vị trời đất: Gió Sở mây Tần lộng lẫy,
Hồ cầm dạo khúc đêm rằm trăng soi.
Dòng thu nước lặng êm trôi,
Thuyền ai lững thững giữa trời mộng mơ.
4. Về trời và hiện linh: Dẫu cô theo Mẫu về trời,
Hồn thiêng vẫn ứng trên đồi Thanh Hoa.
Cây sung vẫn là nơi ở,
Cây lan rợp bóng ngát hoa bốn mùa.
5. Hội rước tháng Hai: Tháng hai rộn rã gần xa,
Đưa về Ba Dội, rước ra đền thờ.
Chín giếng dòng chảy mộng mơ,
Âm dương giao cảm giữa bờ công đồng.
6. Linh địa ba tỉnh: Ninh Bình, Nghệ với Thanh Hóa,
Người người tự đến rước hương tôn thờ.
Nước thu lặng lẽ mộng mơ,
Tay tiên vun lá, gầy cơ cho đời.
Bản 3
1. Mở cảnh núi rừng tiên giới: Vượn hót chim kêu trên cao,
Cá vàng cá bạc nhảy vào khe xanh.
Tam thai ngũ nhạc loan thành,
Trăng soi gió thổi hội quần tiên vui.
2. Du hành thần tiên: Cô ngự xe rồng rong chơi,
Khi buồn rải khúc đàn hơi mây ngàn.
Khi vui, hầu đồng, múa quạt,
Về trang sơn tửu hát vang cõi trời.
3. Cô trị bệnh cứu người: Mẫu trao quyền chấp quần sanh,
Cô cai thế giới, chúng sinh nguyện cầu.
Ai mà mê muội, cúi đầu,
Cô thương che chở, giải sầu trần ai.
4. Trừng phạt kẻ lầm lỗi: Ai mà coi nhẹ đền cô,
Khiến cho mê loạn, bệnh vô ngày lành.
Khi thì lạnh toát run mình,
Lúc thì nóng bức chẳng yên giấc nằm.
Bản 4
1. Gốc tích, dung nhan cô: Miền Nam in bóng trăng thanh,
Gặp bạn tri kỷ kết thành tiên duyên.
Chín giếng cô giữ tinh tuyền,
Ngoài đền Sòng ấy linh thiêng khôn cùng.
2. Cảnh tiên và sứ mệnh: Cô về mặc áo hoa văn,
Chầu về Mẫu điện – bốn phương đã từng.
Bay ngang cứu kẻ trầm luân,
Hiển linh Nam Bắc ngàn lần ứng chân.
3. Nơi cô ngự và pháp môn: Cây si đánh dấu ngàn năm,
Lưu truyền phép nhiệm trong rừng cổ sơ.
Ngũ hành vận chuyển liên cơ,
Đồ thư cổ tích bây giờ còn ghi.
4. Lòng thành người thế gian: Đền cô lửa khói bốn bề,
Trăng soi rừng núi, gió về đêm sâu.
Dân gian khấn tạ nhiệm màu,
Uống vào nước thánh bệnh đâu tiêu liền.
Múa Quạt
Quạt tàu nan xương ba sáu,
Cô cầm quạt nhẹ như dải lụa bay.
Quạt trắng phấp phới tầng mây,
Quạt hồng rực rỡ giữa ngày hiển linh.
Đôi tay múa nhẹ như hình,
Tựa chim tiên vỗ cánh nghinh non trời.
Quạt cho sóng lặng gió yên,
Cho lòng trần thế dịu hiền an nhiên.
Dệt Gấm Thêu Hoa
Khung cửi cô dựng đền vàng,
Thoi ngà xâu ngọc, đường tơ nhẹ nhàng.
Kim chỉ lên xuống dịu dàng,
Tay tiên thêu khéo, đường ngang rõ ràng.
Cô thêu cảnh vật non ngàn,
Thêu sông, thêu suối, thêu đàn cá bơi.
Thêu mây, thêu nguyệt trên trời,
Thêu nàng tiên nữ, áo dài cung trăng.
Cô Chín không chỉ là một thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu, mà còn được tôn sùng như một vị thần có khả năng giúp đỡ con người trong các công việc quan trọng. Cô Chín có thể xem bói, chữa bệnh và giúp giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống.
BÀN THỜ CANH NẬU - BÀN THỜ SANG TRỌNG ĐẲNG CẤP, THIẾT KẾ SÁNG TẠO DẪN ĐẦU XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG
Điện Thoại: 0936 32 08 32 - 0987 152 648
Website: vach-ngan.com
Email: [email protected]
Xưởng Sản Xuất: thôn 3, Canh Nậu, Thạch Thất, Hà Nội