Đôi câu đối này, với ý niệm “Dịch tự kiệm cần tư đức thế – Bách niên...”, chính là lời răn truyền thống sâu sắc: lấy đức làm gốc, lấy cần kiệm làm nền, để dòng họ trường tồn qua muôn năm, nhiều đời phúc thọ.
Theo văn hiến Hán cổ, “奕禩” mang nghĩa là “nhiều năm, nhiều đời”, tương tự như các cách nói “dịch thế”, “dịch đại”. Hai chữ này thường xuất hiện trong các bia mộ, hoành phi, câu đối thờ tổ tiên hoặc văn chương cung đình, mang hàm ý ca ngợi sự nghiệp truyền đời, phúc thọ trường cửu.
Trong “Khang Hy tự điển”, chữ 禩 (tự) được giải nghĩa là “tuế kỷ, năm tháng, sự kéo dài lâu bền”, thường dùng trong các cụm như “延禩” (duy trì phúc lâu dài), “奕禩” (phúc nối đời đời).
Việc đọc đúng cụm “奕禩” rất quan trọng vì nó giữ trọn cấu trúc đối ngẫu của câu đối. Vế có “奕禩” sẽ đối chỉnh với vế có “Bách niên” ở phía bên kia. Như vậy, ý nghĩa tổng thể của đôi câu là ca ngợi phúc đức và công nghiệp tổ tiên được nối dài muôn đời, con cháu đời đời kế tục, trân trọng gốc đức và nền nếp gia phong.
Giả định toàn vế có thể đọc là:
奕禩儉勤資德世 – Dịch tự kiệm cần tư đức thế, tức là: “Đời đời lấy cần kiệm làm vốn, để truyền đức lại cho đời sau.”
Câu đối còn lại mở đầu bằng “Bách niên”, nên tổng thể tạo thành một cặp hài hòa về âm, ý và hình, biểu đạt hai tầng nghĩa: “nhiều đời truyền phúc” và “trăm năm gây dựng đức”.
Một chi tiết thú vị được nhận ra là chữ 禩 trên tấm khảm có thể bị chế tác nhầm, biến bộ “示” (chỉ thần, lễ) thành bộ “言” (ngôn), khiến người đọc không tra được trong từ điển thông thường. Điều này khá phổ biến trong các câu đối cổ khảm trai, chạm gỗ, bởi người thợ đôi khi không thông Hán tự, dẫn đến nhầm bộ thủ.
Từ việc đối chiếu văn bản, ngữ nghĩa, và tham khảo nhiều bản khắc tương tự ở Trung Hoa, có thể khẳng định rằng chữ đúng là “禩” – đọc là “tự”, ghép thành cụm “奕禩” (Dịch tự), hoàn toàn chuẩn về đối ý với “Bách niên” ở vế sau.


















